Nhím lùn ngày nay có nguồn gốc từ trung và nam Châu Phi. Chúng có tất cả 17 chi. Tên tiếng anh của chúng là hedgehog, bắt nguồn từ chữ Latinh và thuộc phân họ Erinaceidae.
Theo một số tài liệu, mặc dù hội tụ nhiều đặc điểm của loài nhím, nhưng thật ra, chúng có mối quan hệ họ hàng chặt chẽ với chuột chù. Thuộc bộ gặm nhắm nên thức ăn chủ yếu của chúng trong tự nhiên là thực vật, côn trùng, ốc sên…thậm chỉ cả rắn. Theo các nhà khoa học thì loài này có thể kháng được cả nọc độc của một số loài rắn. Chúng có màu sắc rất đa dạng, ví dụ như màu nhím lùn màu cafe sữa, màu muối tiêu, trắng hay vàng chẳng hạn.....
Nhím lùn trong tự nhiên
Không giống với loài nhím rừng mà chúng ta thường thấy, nhím lùn có một thân hình bầu dục, nửa thân trên phủ toàn gai ngắn, nửa thân dưới là phần lông mao màu trắng mềm mại. Không giống với những lời đồn đại, chúng không hề có khả năng phóng gai hay sát thương. Phần mặt, chân cũng được bao phủ bởi một lớp lông mao rất mềm mại. Các bé có độ tuổi 1,5 tháng tuổi thông thường đạt cân nặng khoảng 70g -100g (cỡ quả trứng vịt). Khi trưởng thành, con to nhất cũng đạt xấp xỉ 1kg và có chiều dài khoảng 13-20 cm.
Ở môi trường sống hoang dã, nhím lùn bắt đầu ra khỏi hang, để tìm kiếm thức ăn khi trời chập tối. Chúng có thể đi hàng dặm mỗi đêm và đạt tốc độ trung bình khoảng 30-40 mét mỗi phút. Rất hiếm khi thấy chúng xuất hiện vào ban ngày trừ khi chúng bị bệnh. Chúng sẽ sẵn sàng ăn bất cứ thứ gì ăn được nếu bắt gặp trên đường đi, thậm chí có cả động vật có xương sống như thằn lằn chẳng hạn. Nhưng khi đã được con người thuần hóa và tập cho thích nghi với môi trường nuôi nhốt, thức ăn công nghiệp cho mèo lại là thức ăn chính của chúng. Ngoài ra, cũng có thể bổ sung đạm bằng cách cho ăn thêm sâu gạo.
Chúng sẽ bắt đầu bước vào chu kì giao phối khi đã đạt được khoảng 6 tháng tuổi và chấm dứt sinh sản khi được 3 năm tuổi. Trung bình mỗi năm, chúng sẽ sinh 2 lứa, mỗi lứa từ 3-6 baby. Có trường hợp ghi nhận đến 10 baby, hoặc cũng chỉ có 1 baby.
Chúng có nhiều cách thể hiện bản thân, chúng sẽ rít, hoặc huýt sáo khe khẽ. Khi bé nhà bạn hét lên, có nghĩa là nó đang gặp nguy hiểm hoặc trong cơn đau nghiêm trọng. Khi chúng rung bần bật, điều đó không có nghĩa là nó bị bệnh, thay vào đó, Chúng đang gửi đi một cảnh báo cho các động vật khác hoặc mối đe dọa để tránh xa lãnh thổ của mình hoặc nguồn thức ăn.
Ở một số quốc gia châu Âu và Mỹ, các tổ chức phi chính phủ được thành lập ngày càng nhiều nhằm ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài động vật đáng yêu này. Song song đó, chính phủ các nước cũng đã khởi động các dự thảo luật nhằm đưa loài nhím lùn vào danh sách các loài cần được bảo tồn. Ở một số tiểu bang Hoa Kỳ, việc nuôi nhốt, sở hữu chúng được coi là hành động bất hợp pháp. Nhưng rất may mắn, sự tuyệt chủng ấy dường như không lan rộng đến Việt Nam và chính phủ Việt Nam cũng không hề cấm người dân sở hữu loài động vật hoang dã như nhím lùn châu phi.
Theo một số tài liệu, mặc dù hội tụ nhiều đặc điểm của loài nhím, nhưng thật ra, chúng có mối quan hệ họ hàng chặt chẽ với chuột chù. Thuộc bộ gặm nhắm nên thức ăn chủ yếu của chúng trong tự nhiên là thực vật, côn trùng, ốc sên…thậm chỉ cả rắn. Theo các nhà khoa học thì loài này có thể kháng được cả nọc độc của một số loài rắn. Chúng có màu sắc rất đa dạng, ví dụ như màu nhím lùn màu cafe sữa, màu muối tiêu, trắng hay vàng chẳng hạn.....
Nhím lùn trong tự nhiên
Không giống với loài nhím rừng mà chúng ta thường thấy, nhím lùn có một thân hình bầu dục, nửa thân trên phủ toàn gai ngắn, nửa thân dưới là phần lông mao màu trắng mềm mại. Không giống với những lời đồn đại, chúng không hề có khả năng phóng gai hay sát thương. Phần mặt, chân cũng được bao phủ bởi một lớp lông mao rất mềm mại. Các bé có độ tuổi 1,5 tháng tuổi thông thường đạt cân nặng khoảng 70g -100g (cỡ quả trứng vịt). Khi trưởng thành, con to nhất cũng đạt xấp xỉ 1kg và có chiều dài khoảng 13-20 cm.
Ở môi trường sống hoang dã, nhím lùn bắt đầu ra khỏi hang, để tìm kiếm thức ăn khi trời chập tối. Chúng có thể đi hàng dặm mỗi đêm và đạt tốc độ trung bình khoảng 30-40 mét mỗi phút. Rất hiếm khi thấy chúng xuất hiện vào ban ngày trừ khi chúng bị bệnh. Chúng sẽ sẵn sàng ăn bất cứ thứ gì ăn được nếu bắt gặp trên đường đi, thậm chí có cả động vật có xương sống như thằn lằn chẳng hạn. Nhưng khi đã được con người thuần hóa và tập cho thích nghi với môi trường nuôi nhốt, thức ăn công nghiệp cho mèo lại là thức ăn chính của chúng. Ngoài ra, cũng có thể bổ sung đạm bằng cách cho ăn thêm sâu gạo.
Chúng sẽ bắt đầu bước vào chu kì giao phối khi đã đạt được khoảng 6 tháng tuổi và chấm dứt sinh sản khi được 3 năm tuổi. Trung bình mỗi năm, chúng sẽ sinh 2 lứa, mỗi lứa từ 3-6 baby. Có trường hợp ghi nhận đến 10 baby, hoặc cũng chỉ có 1 baby.
Chúng có nhiều cách thể hiện bản thân, chúng sẽ rít, hoặc huýt sáo khe khẽ. Khi bé nhà bạn hét lên, có nghĩa là nó đang gặp nguy hiểm hoặc trong cơn đau nghiêm trọng. Khi chúng rung bần bật, điều đó không có nghĩa là nó bị bệnh, thay vào đó, Chúng đang gửi đi một cảnh báo cho các động vật khác hoặc mối đe dọa để tránh xa lãnh thổ của mình hoặc nguồn thức ăn.
Ở một số quốc gia châu Âu và Mỹ, các tổ chức phi chính phủ được thành lập ngày càng nhiều nhằm ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài động vật đáng yêu này. Song song đó, chính phủ các nước cũng đã khởi động các dự thảo luật nhằm đưa loài nhím lùn vào danh sách các loài cần được bảo tồn. Ở một số tiểu bang Hoa Kỳ, việc nuôi nhốt, sở hữu chúng được coi là hành động bất hợp pháp. Nhưng rất may mắn, sự tuyệt chủng ấy dường như không lan rộng đến Việt Nam và chính phủ Việt Nam cũng không hề cấm người dân sở hữu loài động vật hoang dã như nhím lùn châu phi.
- Nguồn
- nuoinhimlun