Bệnh dại là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm – do virus dại gây ra chung giữa động vật và người – gây nên những cái chết với những triệu chứng rất thảm khốc.
Đặc điểm của bệnh là virus tác động vào hệ thần kinh gây rối loạn thần kinh trung ương não bộ dẫn đến viêm não, liệt não làm cho con vật trở nên hoảng loạn (điên dại) và chết. Nguồn mang bệnh dại chủ yếu là chó (90%), mèo nuôi (5%) và còn lại ở động vật hoang dã (5%). Triệu chứng bệnh dại ở thú nuôi thường biểu hiện qua 2 thể bệnh thường thấy đó là thể điên cuồng và thể dại câm. Hiện nay bệnh dại này đã được phát cảnh báo trong tất cả các bang ở nước Mỹ (ngoại trừ Hawaii), và ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới – ngoại trừ Úc và Nam Cực. Hàng năm, bệnh dại gây ra cái chết cho hơn 50.000 người và hàng triệu loài động vật trên toàn thế giới. Nó là căn bệnh cực kì nguy hiểm và gây ám ảnh cho nhiều động vật và con người nói chung, những chủ nuôi và thú nuôi nói riêng.
Đặc điểm và cách thức lây truyền bệnh dại
Virus gây bệnh là loại virus dại thuộc họ Rhabdovirus, có cấu tạo ARN và có bao ngoài. Chúng có thể tồn tại trong cơ thể từ 2-8 tuần trước khi có biểu hiện phát bệnh ra ngoài. Tuy nhiên, nếu virus được truyền từ nước bọt qua vết cắn thì thời gian phát bệnh có thể rút ngắn lại còn 10 ngày.
Bệnh thường có nguy cơ lây nhiễm cao ở thú chưa được tiêm phòng, hay đi lang thang ra bên ngoài nhiều và tiếp xúc với động vật hoang dã hay chó/mèo bị nhiễm bệnh. Bệnh lây chủ yếu qua vết cắn, virus dại được truyền trực tiếp từ chó dại sang chó khỏe qua nước bọt tại vết cắn.
Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh dại ở chó
Sau khi thú bị nhiễm trùng, virus bệnh dại sẽ xâm nhập và phát triển đầu tiên trong mô cơ, ở đây chúng có thể tồn tại mà không bị phát hiện trong nhiều ngày hoặc thậm chí là nhiều tháng. Trong thời gian ủ bệnh này (hoặc tiềm ẩn), con vật vẫn khỏe mạnh và không có cứ một dấu hiệu biểu hiện bệnh nào.
Tiếp đến thường là trong vòng từ 1 đến 3 tháng, virus gây bệnh dại sẽ bắt đầu xâm nhập tới các dây thần kinh trong cơ thể, tấn công tủy sống và não (các hệ thần kinh trung ương). Theo đó phải mất từ 12-180 ngày để virus lây lan qua các dây thần kinh ngoại vi và cuối cùng là hệ thần kinh trung ương. Từ đây bệnh bắt đầu tiến triển một cách nhanh chóng và con vật bắt đầu có những dấu hiệu rõ rệt của bệnh dại (virus này tồn tại trong nước bọt, nước mắt, sữa mẹ và cả nước tiểu của thú). Cuối cùng con vật sẽ chết trong vòng 4 hoặc 5 ngày. Bệnh thường được biểu hiện qua 2 giai đoạn chính: thời kỳ ủ bệnh và thời kỳ phát bệnh.
a. Thời kỳ ủ bệnh: Thời kỳ ủ bệnh có thể thay đổi từ 7 ngày đến nhiều tháng tùy thuộc loài, độc lực của virút và vị trí vết cắn. Đa số bệnh phát ra trong vòng 21 – 30 ngày sau khi con vật nhiễm virút. Ở chó thời gian này trung bình là 10 ngày.
Những triệu chứng này thường không bị phát hiện hoặc bị nhầm lẫn với triệu chứng của các bệnh khác, đó là lý do tại sao việc chuẩn đoán bệnh cho thú nuôi của bạn trong giai đoạn này là cực kì khó khăn và cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của các bác sĩ thú y.
b. Thời kỳ phát bệnh: Thường được chia làm 2 thể là thể dại điên cuồng và thể dại câm (bại liệt).
Trong thực tế, nhiều con chó mắc bệnh dại có thể biểu hiện cả 2 dạng lâm sàng này một cách xen kẽ nhau, thời gian đầu có biểu hiện điên cuồng, bị kích động rồi sau đó chuyển sang dạng bị ức chế và bại liệt.
Thể dại điên cuồng: Được chia làm 3 thời kỳ:
– Thời kỳ tiền lâm sàng: Chó bị dại có dấu hiệu khác thường như: trốn vào góc tối, kín đáo, đến gần chủ miễn cưỡng hoặc trái lại, tỏ ra vồn vã thái quá, thỉnh thoảng sủa vu vơ, tru lên từng hồi hoặc bồn chồn,. .v.v.
– Thời kỳ điên cuồng:
+ Các phản xạ vận động bị kích thích mạnh, cắn sủa người lạ dữ dội, quá vồ vập khi chủ gọi, chỉ cần có tiếng động nhẹ cũng nhảy lên sủa từng hồi dài.
+ Vết thương nơi bị cắn ngứa, chó liếm hoặc tự cắn, cào đến rụng lông, chảy máu.
+ Chó bỏ ăn, nuốt khó, sốt, mắt đỏ ngầu, dãn đồng tử, con vật có biểu hiện khát nước, muốn uống nhưng không nuốt được, chó bắt đầu chảy nước dãi, sùi bọt mép, tỏ vẻ bồn chồn, cảnh giác, sợ sệt, cắn vu vơ hay giật mình, đi lại không có chủ định, trở nên hung dữ, điên cuồng (2 – 3 ngày sau khi phát bệnh).
+ Con vật bỏ nhà đi và thường không trở về, trên đường đi gặp vật gì lạ nó cũng cắn gặm, ăn bừa bãi, tấn công chó khác, kể cả người.
– Thời kỳ bại liệt:
+ Chó bị liệt, không nuốt được thứcăn, nước uống, liệt hàm dưới và lưỡi nên trễ hàm, thè lưỡi ra ngoài, nước dãi chảy ra, chân sau liệt ngày càng rõ.
+ Chó chết trong khoảng từ 3 – 7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên, do liệt cơ hô hấp và do kiệt sức vì không ăn uống được.
Thể dại điên cuồng chỉ chiếm khoảng 1/4 các trường hợp chó dại, số còn lại là thể dại câm.
Thể dại câm: Là dạng bệnh không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy, chó chỉ có biểu hiện buồn rầu.
+ Có thể bị bại ở một phần cơ thể, nửa người hoặc 2 chân sau nhưng thường là liệt cơ hàm, mồm luôn hé mở, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra.
+ Nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng.
+ Quá trình này tiến triển từ 2 – 3 ngày.
Nói chung, thể dại câm tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thông thường chỉ từ 2 – 3 ngày vì hành tủy của con vật bệnh bị virút tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm hơn.
Riêng ở mèo, ít bị mắc bệnh dại hơn chó (2 – 5%) vì mèo quen sống một mình. Bệnh dại ở mèo cũng tiến triển như ở chó. Mèo bệnh hay núp mình vào chỗ vắng, bóng tối, hay kêu, bồn chồn, không nằm yên một chỗ, khi người chạm vào thì nó cắn mạnh và cào, gây nên vết thương sâu tạo điều kiện cho vi rút dại xâm nhập.
Phương pháp chẩn đoán bệnh dại
Phương pháp chuẩn đoán lâm sàng: Đầu tiên, nếu thú nuôi của bạn bị nghi là đã nhiễm bệnh dại thì việc đưa thú đến bác sĩ thú y là cần thiết, ở đây BSTY sẽ giữ cho vật nuôi của bạn cách ly trong lồng khóa khoảng 10 ngày và tiến hành chẩn đoán lâm sàng kết hợp với theo dõi các triệu chứng, lịch sử thói quen của thú, thái độ của thú đối với chủ nuôi và cả với những động vật khác.
Xét nghiệm máu-ELISA: Đây cũng là một phương pháp dùng để chuẩn đoán bệnh dại, tuy nhiên đây lại là phương pháp không được sử dụng nhiều cho lắm.
Xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp là thử nghiệm chính xác nhất để chẩn đoán – nhưng bởi vì nó đòi hỏi phải có mô não vì vậy phương pháp này chỉ có thể được thực hiện sau khi con vật đã chết.
Cách phòng chống bệnh dại
Bệnh dại là một căn bệnh cực kì nguy hiểm và tiến triển với tốc độ rất nhanh, gây ra nhiều cái chết thương tâm cho thú nuôi và làm tăng cao nguy cơ gây nguy hiểm cho chủ nuôi và các thành viên trong gia đình, thậm chí là ảnh hướng đến rất nhiều người. Hiện nay Tổ Chức Y Tế Thế giới xếp bệnh dại vào một trong 12 căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất trên thế giới. Việc chữa trị cho thú bị nhiễm bệnh là cực kì tốn kém, khó khắn và hầu như điều trị là điều không thể. Do đó để bảo vệ cho thú nuôi của bạn, bên cạnh đó đảm bảo an toàn cho gia đình, người thân và cả chính bạn trước căn bệnh nguy hiểm này, phòng bệnh là phương án tối ưu nhất mà bạn nên áp dụng. Càng sớm càng tốt bạn nhé!
– Tiêm phòng dại định kỳ hàng năm cho thú nuôi. Thời điểm tiêm phòng:
+ Tiêm lần đầu cho chó con được 4 tuần tuổi.
+ Nếu chó con được sinh ra từ chó mẹ đã được tiêm phòng thì tiêm cho chó con vào lúc chó được 3 tháng tuổi và sau đó tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.
– Phải thường xuyên xích chó, nuôi chó trong nhà, không được thả rông ngoài đường. Khi dắt chó ra nơi công cộng phải có người dắt và theo dõi, không để chó đi lang thang ngoài đường.
– Vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.
– Khi phát hiện chó, mèo có những biểu hiện bất thường, bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao, hung dữ khác thường thì nên đưa thú tới các cơ sở thú y gần nhất.
– Khử trùng những khu vực xung quanh thú bị nghi/bị bệnh dại (đặc biệt là với nước bọt) pha loãng theo tỉ lệ 1:32 (150g/ 4 lít) dung dịch thuốc tẩy gia dụng.
– Chó chết do mắc bệnh dại hoặc nghi mắc bệnh dại phải đem chôn hoặc đốt xác.
© YeuPet
Đặc điểm của bệnh là virus tác động vào hệ thần kinh gây rối loạn thần kinh trung ương não bộ dẫn đến viêm não, liệt não làm cho con vật trở nên hoảng loạn (điên dại) và chết. Nguồn mang bệnh dại chủ yếu là chó (90%), mèo nuôi (5%) và còn lại ở động vật hoang dã (5%). Triệu chứng bệnh dại ở thú nuôi thường biểu hiện qua 2 thể bệnh thường thấy đó là thể điên cuồng và thể dại câm. Hiện nay bệnh dại này đã được phát cảnh báo trong tất cả các bang ở nước Mỹ (ngoại trừ Hawaii), và ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới – ngoại trừ Úc và Nam Cực. Hàng năm, bệnh dại gây ra cái chết cho hơn 50.000 người và hàng triệu loài động vật trên toàn thế giới. Nó là căn bệnh cực kì nguy hiểm và gây ám ảnh cho nhiều động vật và con người nói chung, những chủ nuôi và thú nuôi nói riêng.
Đặc điểm và cách thức lây truyền bệnh dại
Virus gây bệnh là loại virus dại thuộc họ Rhabdovirus, có cấu tạo ARN và có bao ngoài. Chúng có thể tồn tại trong cơ thể từ 2-8 tuần trước khi có biểu hiện phát bệnh ra ngoài. Tuy nhiên, nếu virus được truyền từ nước bọt qua vết cắn thì thời gian phát bệnh có thể rút ngắn lại còn 10 ngày.
Bệnh thường có nguy cơ lây nhiễm cao ở thú chưa được tiêm phòng, hay đi lang thang ra bên ngoài nhiều và tiếp xúc với động vật hoang dã hay chó/mèo bị nhiễm bệnh. Bệnh lây chủ yếu qua vết cắn, virus dại được truyền trực tiếp từ chó dại sang chó khỏe qua nước bọt tại vết cắn.
Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh dại ở chó
Sau khi thú bị nhiễm trùng, virus bệnh dại sẽ xâm nhập và phát triển đầu tiên trong mô cơ, ở đây chúng có thể tồn tại mà không bị phát hiện trong nhiều ngày hoặc thậm chí là nhiều tháng. Trong thời gian ủ bệnh này (hoặc tiềm ẩn), con vật vẫn khỏe mạnh và không có cứ một dấu hiệu biểu hiện bệnh nào.
Tiếp đến thường là trong vòng từ 1 đến 3 tháng, virus gây bệnh dại sẽ bắt đầu xâm nhập tới các dây thần kinh trong cơ thể, tấn công tủy sống và não (các hệ thần kinh trung ương). Theo đó phải mất từ 12-180 ngày để virus lây lan qua các dây thần kinh ngoại vi và cuối cùng là hệ thần kinh trung ương. Từ đây bệnh bắt đầu tiến triển một cách nhanh chóng và con vật bắt đầu có những dấu hiệu rõ rệt của bệnh dại (virus này tồn tại trong nước bọt, nước mắt, sữa mẹ và cả nước tiểu của thú). Cuối cùng con vật sẽ chết trong vòng 4 hoặc 5 ngày. Bệnh thường được biểu hiện qua 2 giai đoạn chính: thời kỳ ủ bệnh và thời kỳ phát bệnh.
a. Thời kỳ ủ bệnh: Thời kỳ ủ bệnh có thể thay đổi từ 7 ngày đến nhiều tháng tùy thuộc loài, độc lực của virút và vị trí vết cắn. Đa số bệnh phát ra trong vòng 21 – 30 ngày sau khi con vật nhiễm virút. Ở chó thời gian này trung bình là 10 ngày.
Những triệu chứng này thường không bị phát hiện hoặc bị nhầm lẫn với triệu chứng của các bệnh khác, đó là lý do tại sao việc chuẩn đoán bệnh cho thú nuôi của bạn trong giai đoạn này là cực kì khó khăn và cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của các bác sĩ thú y.
b. Thời kỳ phát bệnh: Thường được chia làm 2 thể là thể dại điên cuồng và thể dại câm (bại liệt).
Trong thực tế, nhiều con chó mắc bệnh dại có thể biểu hiện cả 2 dạng lâm sàng này một cách xen kẽ nhau, thời gian đầu có biểu hiện điên cuồng, bị kích động rồi sau đó chuyển sang dạng bị ức chế và bại liệt.
Thể dại điên cuồng: Được chia làm 3 thời kỳ:
– Thời kỳ tiền lâm sàng: Chó bị dại có dấu hiệu khác thường như: trốn vào góc tối, kín đáo, đến gần chủ miễn cưỡng hoặc trái lại, tỏ ra vồn vã thái quá, thỉnh thoảng sủa vu vơ, tru lên từng hồi hoặc bồn chồn,. .v.v.
– Thời kỳ điên cuồng:
+ Các phản xạ vận động bị kích thích mạnh, cắn sủa người lạ dữ dội, quá vồ vập khi chủ gọi, chỉ cần có tiếng động nhẹ cũng nhảy lên sủa từng hồi dài.
+ Vết thương nơi bị cắn ngứa, chó liếm hoặc tự cắn, cào đến rụng lông, chảy máu.
+ Chó bỏ ăn, nuốt khó, sốt, mắt đỏ ngầu, dãn đồng tử, con vật có biểu hiện khát nước, muốn uống nhưng không nuốt được, chó bắt đầu chảy nước dãi, sùi bọt mép, tỏ vẻ bồn chồn, cảnh giác, sợ sệt, cắn vu vơ hay giật mình, đi lại không có chủ định, trở nên hung dữ, điên cuồng (2 – 3 ngày sau khi phát bệnh).
+ Con vật bỏ nhà đi và thường không trở về, trên đường đi gặp vật gì lạ nó cũng cắn gặm, ăn bừa bãi, tấn công chó khác, kể cả người.
– Thời kỳ bại liệt:
+ Chó bị liệt, không nuốt được thứcăn, nước uống, liệt hàm dưới và lưỡi nên trễ hàm, thè lưỡi ra ngoài, nước dãi chảy ra, chân sau liệt ngày càng rõ.
+ Chó chết trong khoảng từ 3 – 7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên, do liệt cơ hô hấp và do kiệt sức vì không ăn uống được.
Thể dại điên cuồng chỉ chiếm khoảng 1/4 các trường hợp chó dại, số còn lại là thể dại câm.
Thể dại câm: Là dạng bệnh không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy, chó chỉ có biểu hiện buồn rầu.
+ Có thể bị bại ở một phần cơ thể, nửa người hoặc 2 chân sau nhưng thường là liệt cơ hàm, mồm luôn hé mở, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra.
+ Nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng.
+ Quá trình này tiến triển từ 2 – 3 ngày.
Nói chung, thể dại câm tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thông thường chỉ từ 2 – 3 ngày vì hành tủy của con vật bệnh bị virút tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm hơn.
Riêng ở mèo, ít bị mắc bệnh dại hơn chó (2 – 5%) vì mèo quen sống một mình. Bệnh dại ở mèo cũng tiến triển như ở chó. Mèo bệnh hay núp mình vào chỗ vắng, bóng tối, hay kêu, bồn chồn, không nằm yên một chỗ, khi người chạm vào thì nó cắn mạnh và cào, gây nên vết thương sâu tạo điều kiện cho vi rút dại xâm nhập.
Phương pháp chẩn đoán bệnh dại
Phương pháp chuẩn đoán lâm sàng: Đầu tiên, nếu thú nuôi của bạn bị nghi là đã nhiễm bệnh dại thì việc đưa thú đến bác sĩ thú y là cần thiết, ở đây BSTY sẽ giữ cho vật nuôi của bạn cách ly trong lồng khóa khoảng 10 ngày và tiến hành chẩn đoán lâm sàng kết hợp với theo dõi các triệu chứng, lịch sử thói quen của thú, thái độ của thú đối với chủ nuôi và cả với những động vật khác.
Xét nghiệm máu-ELISA: Đây cũng là một phương pháp dùng để chuẩn đoán bệnh dại, tuy nhiên đây lại là phương pháp không được sử dụng nhiều cho lắm.
Xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp là thử nghiệm chính xác nhất để chẩn đoán – nhưng bởi vì nó đòi hỏi phải có mô não vì vậy phương pháp này chỉ có thể được thực hiện sau khi con vật đã chết.
Cách phòng chống bệnh dại
Bệnh dại là một căn bệnh cực kì nguy hiểm và tiến triển với tốc độ rất nhanh, gây ra nhiều cái chết thương tâm cho thú nuôi và làm tăng cao nguy cơ gây nguy hiểm cho chủ nuôi và các thành viên trong gia đình, thậm chí là ảnh hướng đến rất nhiều người. Hiện nay Tổ Chức Y Tế Thế giới xếp bệnh dại vào một trong 12 căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất trên thế giới. Việc chữa trị cho thú bị nhiễm bệnh là cực kì tốn kém, khó khắn và hầu như điều trị là điều không thể. Do đó để bảo vệ cho thú nuôi của bạn, bên cạnh đó đảm bảo an toàn cho gia đình, người thân và cả chính bạn trước căn bệnh nguy hiểm này, phòng bệnh là phương án tối ưu nhất mà bạn nên áp dụng. Càng sớm càng tốt bạn nhé!
– Tiêm phòng dại định kỳ hàng năm cho thú nuôi. Thời điểm tiêm phòng:
+ Tiêm lần đầu cho chó con được 4 tuần tuổi.
+ Nếu chó con được sinh ra từ chó mẹ đã được tiêm phòng thì tiêm cho chó con vào lúc chó được 3 tháng tuổi và sau đó tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.
– Phải thường xuyên xích chó, nuôi chó trong nhà, không được thả rông ngoài đường. Khi dắt chó ra nơi công cộng phải có người dắt và theo dõi, không để chó đi lang thang ngoài đường.
– Vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.
– Khi phát hiện chó, mèo có những biểu hiện bất thường, bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao, hung dữ khác thường thì nên đưa thú tới các cơ sở thú y gần nhất.
– Khử trùng những khu vực xung quanh thú bị nghi/bị bệnh dại (đặc biệt là với nước bọt) pha loãng theo tỉ lệ 1:32 (150g/ 4 lít) dung dịch thuốc tẩy gia dụng.
– Chó chết do mắc bệnh dại hoặc nghi mắc bệnh dại phải đem chôn hoặc đốt xác.
© YeuPet
Nguồn Bacsithuy