Lựa chọn thuốc kháng nấm thích hợp cũng như liều dùng cho điều trị nhiễm nấm toàn thân có thể gặp nhiều khó khăn. Chọn một thuốc kháng nấm dựa vào dữ liệu về độ nhạy cảm với một vài nguyên nhân. Xác định dược động học về nồng độ thuốc kháng nấm trong các mô khác nhau hoặc trong chất lỏng của chó và mèo là tối thiểu.
1. Griseofulvin (thuốc kháng sinh đặc trị các bệnh ngoài da do nấm)
Griseofulvin là thuốc kháng nấm đuợc sản xuất bởi Peniclillium griseofulvum. Hấp thu qua đường tiêu hóa, có hiệu quả chống lại sự lây nhiễm bởi nấm ngoài da nhưng không phải là nấm men. Griseofulvin được đưa vào bên trong lớp biểu bì của da và những phần liên quan đến da. Vài tuần điều trị là cần thiết cho sự phân phối hoàn toàn thuốc vào trong tế bào và ức chế sự phát triển của nấm. Sự đề kháng hiếm khi xảy ra trong quá trình điều trị. Mặc dù có thể gây quái thai trên chó nhưng griseofulvin không có ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch ở chó.
2. Iodides
Dung dịch chứa 20% sodium iodide (NaI) hoặc 100% potassium iodide (KI) dùng đường uống để điều trị bệnh nhiễm nấm ngoài da, ít độc hơn so với amphotericin B (AMB), dễ dàng tìm thấy tại các phòng mạch để trị phát ban trên da cùng với chứng rụng lông.
3. Amphotericin B và Polyenes khác
AMB là một lypophilic polyene chiết xuất từ Streptomyces nodosus. Do nó kém hấp thu qua niêm mạc tế bào dạ dày hoặc qua da nên AMB phải được tiêm ( thường dùng đường tiêm tĩnh mạch) trong điều trị bệnh nấm toàn thân. Thuốc nước và thuốc dùng tại chỗ được dùng để điều trị bệnh nhiễm trùng niêm mạc hoặc nhiễm trùng ngoài da. Kết quả từ nghiên cứu phòng thí nghiệm chống lại nhiễm trùng nấm chỉ ra khi dùng thuốc cứ 3 ngày
1 lần thì hiệu quả cao so với liều dùng mỗi ngày.
Hầu hết các thuốc được chuyển hóa ngay tại tế bào, một lượng nhỏ sẽ được bài tiết qua nước tiểu. Tiêm tĩnh mạch (IV) chuẩn cần chuẩn bị AMB đông khô kết hợp với deoxycholate muối mật và chất đệm ở trạng thái keo (ADB). Vì nồng độ ở mô não là 6-10 lần cao hơn so với các chế phẩm khác AMB và là yếu tố quyết định quan trọng xác định hiệu quả trong nhiễm trùng ở hệ thần kinh trung ương.
AMB là lựa chọn đầu tiên trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng nấm đối với các loại nấm ăn sâu vào trong cơ thể và có tiến triển nhanh chóng, phổ biến. Sự kháng thuốc rất hiếm khi xảy ra trong quá trình điều trị, nhưng tỷ lệ tái phát có thể xảy ra khi thuốc được ngưng.
Hamycin là một polyene khác nó có hiệu quả chống lại Candida Cryptococcus, Histoplasma, Blastomyces, và các loài Aspergillus. Nó đã được đưa vào đường miệng (PO), tại chỗ, và màng bụng (IP) để điều trị bệnh nấm khác nhau.
4. Flucytosine
Là một pyrimidin fluorinated ban đầu được tổng hợp như một tác nhân chống ung thư. Trái ngược với các nghiên cứu về AMB hiệu quả của FCY được tăng lên khi mức độ liều lượng nhỏ được đưa vào tần số với nồng độ thấp hơn độc tính có thể làm giảm bớt. Tuy nhiên, sự thâm nhập khó tiếp cận với vùng như hệ thần kinh trung ương vì có thể bị tổn thương.
FCY có hiệu quả chống lại Cryptococcus, Candida, và các loại nấm men khác. Sự đề kháng với FCY thường xuyên phát triển trong quá trình điều trị. Vì lý do này, thuốc này luôn được dùng kết hợp với AMB. Phát ban trên da tương tự như gây ra do azoles đã được quan sát trong điều trị trên chó. Ảnh hưởng trên GI và ức chế tủy sơ cấp là những tác dụng phụ quan sát được ở người (xem công thức thuốc trong phần phụ lục).
5. Dẫn xuất của Azole
Các dẫn xuất tổng hợp của nhóm azole ban đầu được dùng để sản xuất Anthelmintics phổ rộng với các hoạt động chống lại một số vi khuẩn gram+ và động vật nguyên sinh. Azoles có mức độ ức chế tổng hợp sterol tương đối thấp trên động vật có vú. Do đó, nó có tác dụng phụ là giảm testosterone, cortisol, androgen, hoặc cholesterol. Ở nồng độ thấp chúng có tác dụng kìm nấm.
Hiệu quả của azoles dường như phụ thuộc vào tổng số lượng thuốc được đưa vào trong 24 giờ chứ không phụ thuộc vào đường uống. Tất cả azoles trải qua chuyển hóa ở gan bởi các enzym cytochrome P450. Nồng độ azole giảm khi dùng thuốc kết hợp. Khi dùng thuốc kết hợp độc tính không mong đợi có thể xảy ra vì azoles trì hoãn sự trao đổi chất.
Nhóm imidazole, thiabendazole ban đầu được công nhận là có hiệu quả trong điều trị các bệnh nấm da trên người. Miconazole, clotrimazole và enilconazole có sẵn trong các loại kem và mỹ phẩm dùng cho da, nó có thể được dùng trong các giải pháp điều trị tại chỗ các bệnh nhiễm trùng do nấm ở da chẳng hạn như Dermatophytosis và candida Imidazoles dùng tại chỗ bao gồm enilconazole hoặc clotrimazole đã được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm trùng mũi và viêm xoang với aspergillosis.
6. Ketoconazole
KTZ ít hoạt động hơn so với miconazole nhưng được hấp thu tốt hơn từ đường ruột làm cho nó thuận lợi trong việc điều trị các nấm toàn thân và nhiễm nấm cadidiasis mãn tính trên niêm mạc. Tác dụng phụ buồn nôn, chán ăn, nôn ở chó có thể được khắc phục bằng cách cho thuốc vào trong bửa ăn và chia nhỏ liều dùng hằng ngày thành 3-4 lần. KTZ đơn trên chó và mèo lại được điều trị hiệu quả với các bệnh đường hô hấp, bệnh phổi do nấm histoplasma, bệnh truyền nhiễm do nấm crytococcus gây tổn thương hệ thần kinh.
7. Itraconazole
Thuộc nhóm azole.
Không xâm nhập được vào thần kinh trung ương, cũng không được loại bỏ trong nước tiểu.
Được dùng đường uống hoặc đường tiêm và được phân bố rộng rãi trong các mô của cơ thể.
Thường được dành cho nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương với Blastomyces, Histoplasma, Coccidioides, và Aspergillus do phổ rộng hơn và tác dụng phụ ít hơn so với thuốc KTZ.
8. Fluconazole
Dùng đường uống, được sử dụng để điều trị nấm toàn thân bao gồm: viêm màng não, blastomycosis và histoplasmosis và để điều trị nhiễm trùng bề mặt bao gồm cả nấm candida và Dermatophytosis (nấm da).
Ưu điểm: hấp thu tốt qua đường uống và có thời gian bán thải tương đối dài.
FCZ đi qua máu não, hàng rào dịch thể tốt hơn so với các dẫn xuất azole cũ.
khuyến cáo lựa chọn sử dụng đầu tiên FCZ sẽ điều trị nhiễm trùng do Candida hoặc Cryptococcus ở thần kinh trung ương.
9. Voriconazole
Là một dẫn xuất tổng hợp của FCZ.
Được cấp phép để điều trị kháng thuốc do nhiễm trùng Candida và Aspergillus ở người.
Có hiệu quả mạnh trong điều trị aspergillosis (nấm phổi) và và candida nấm hầu họng ở động vật thực nghiệm.
Khi sử dụng thuốc này có thể gây độc thần kinh, hay gan.
10. Posaconazole
Một chất tương tự hydroxy hóa của itz.
Sinh khả dụng khi dùng đường uống có phần có giá trị hơn.
Phân bố rộng rãi trong các mô và dịch thể kể cả tế bào phế nang phổi, nhưng không xâm nhập được vào thần kinh trung ương.
Thử nghiệm sơ bộ ở loài gặm nhấm với sự xâm hại của nấm phổi aspergillosis cho thấy PCZ tốt hơn AMB hoặc triazoles khác trong việc giảm gánh nặng về nấm.
11. Terbinafine
Thuốc dùng đường uống có hoạt tính tốt trong phòng thí nghiệm đối với Aspergillus spp, Fusarium spp và nấm sợi khác nhưng hoạt tính biến thiên trong việc chống lại nấm men.
Có hiệu quả cực tốt trong viêc chống lại nấm ngoài da mãn tính ở người, nấm móng tay, sporotrichosis và nhiễm trùng nấm bề mặt.
12. Chất ức chế tổng hợp Chitin và tổng hợp tế bào vách
Thành tế bào nấm bao gồm các polysaccharides chủ yếu là chitin, chitosan , glucan và Mannan.
Các hợp chất mới đang được nghiên cứu như thuốc kháng nấm toàn thân là polyoxins và nikkomycins Lufenuron, urê benzoylphenyl đều là thuốc ức chế tổng hợp chitin trong vách tế bào nấm.
Khi kết hợp với FCZ hoặc itz có thể có hiệu quả tốt hơn.
13. Echinocandins
Aculeacins, echinocandins, và papulacandins là lipopeptides ức chế sự tổng hợp của 1,3- β-glucan , một polysaccharide trong thành tế bào của nhiều loại nấm gây bệnh.
Có hiệu quả chống hệ thống nấm candidiasis và các loại Aspergillus.
14. Caspofungin
Dùng để điều trị sự xâm lấn của nấm candidiasis và aspergillus cho nhiễm trùng niêm mạc.
Thuốc tan trong nước và đường dùng là đường tiêm
Được chứng minh là có hiệu quả hơn AMB trong điều trị nhiễm nấm candidiasis
Một số loại thuốc khác: Các thuốc như: Anidulafungin, Micafungin, Miltefosine đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc chống lại các loại nấm men, nấm ngoài da và một số nấm sợi
15. Liệu pháp kết hợp
Dùng đồng thời hai hay nhiều thuốc kháng nấm được chỉ định trong những trường hợp nhất định.
Kết hợp AMB và FYC có tác dụng hiệp lực trong điều trị nhiễm trùng Cryptococcus.
Trường hợp aspergillosis xâm nhiễm, điều trị kết hợp sử dụng AMB và FYC hoặc AMB và rifampin là hiệu quả hơn cả thuốc dùng một mình và vượt trội so với AMB và ITZ.
16. Sử dụng thuốc kháng nấm trong những trường hợp cụ thể
Vật chủ bị suy giảm miễn dịch:
Thuốc chống nấm kết hợp với interferon – γ hoặc interleukin- 12 có tác dụng hiệp lực trong điều trị nhiễm trùng hệ thống ở thú gặm nhắm (ở phòng thí nghiệm), điều trị chống nấm và miễn dịch cũng đã được kết hợp và có tác dụng hiệu quả.
Trong trường hợp trị liệu bằng kháng chất xơ:
Xơ hóa là một biến chứng của bệnh nhiễm trùng nấm, đặc biệt là trên những mô cơ thể.
Điều trị phối hợp pentoxifylline và itz làm giảm số lượng điều trị cidioidomycosis so với những người chỉ dùng ITZ.
Thuốc Kháng nấm sử dụng trong thai kỳ:
Griseofulvin, FCZ và KTZ đều gây quái thai hoặc gây độc cho phôi ở động vật và nên tránh sử dụng.
KTZ có thể làm thay đổi tính dục.
Iot có thể gây bướu cổ bẩm sinh ở thai nhi, gây sinh non.
AMB và các chế phẩm lipid của nó không gây quái thai và có thể là thuốc được lựa chọn để điều trị nấm hệ thống của động vật mang thai. FCZ là an toàn ở liều lượng thấp trong thai kỳ
Sự đề kháng với thuốc kháng nấm:
Với những người bị suy giảm miễn dịch và trước đó có sử dụng FCZ được ghi nhận rằng có sự gia tăng nhiễm nấm với aspergillus khi dùng AMB điều trị.
Xử lý trước với FCZ đã làm loài Aspergillus đề kháng hiệu quả hơn AMB.
Tổng liều tích lũy của FCZ và sử dụng lịch trình liều liên tục với liều lượng thấp hơn mức cần thiết là những yếu tố có nhiều khả năng góp phần cho sự xuất hiện việc đề kháng nấm.
Điều trị hỗ trợ phẫu thuật:
Phẫu thuật thường cần thiết để loại bỏ những tạp chất từ vết thương nhiễm nấm trong các khu vực này gây khó khăn cho các thuốc kháng nấm xâm nhập.
Nhiễm nấm trong các mạch võng mạc và màng mạch, với tổn thương rỉ dịch phát triển dọc theo các mạch máu sau đó các nhiễm trùng lây lan đến thủy tinh thể, mao mạch của thần kinh trung ương và kết quả là nhiều khả năng chống sự xâm nhập của các loại thuốc kháng nấm.
FCZ có thể cần thiết cho nhiễm trùng nội nhãn.
Thuốc kháng nấm dùng ngoài:
Một số thuốc dùng ngoài da: Axit Undecylenic, Cuprimyxin Dung dịch chlorhexidine (0,5%), Nystatin, Thiabendazole (13%), dầu gội đầu có chứa miconazole chlorhexidin.
Nystatin dùng đường uống (nhưng hấp thu kém) hoặc dùng bôi lên da hoặc niêm mạc để điều trị nhiễm nấm trên bề mặt niêm mạc.
Thiabendazole (13%) đã được sử dụng như một thuốc nhúng ( ba lần một tuần) để điều trị mèo với Dermatophytosis.
Dầu gội đầu có chứa miconazole chlorhexidine và có sẵn cho điều trị tại chỗ nhiễm nấm da. Miconazole thường được sử dụng tại chỗ để điều trị nấm ngoài da đồng thời kết hợp điều trị toàn thân với griseofulvin.
1. Griseofulvin (thuốc kháng sinh đặc trị các bệnh ngoài da do nấm)
Griseofulvin là thuốc kháng nấm đuợc sản xuất bởi Peniclillium griseofulvum. Hấp thu qua đường tiêu hóa, có hiệu quả chống lại sự lây nhiễm bởi nấm ngoài da nhưng không phải là nấm men. Griseofulvin được đưa vào bên trong lớp biểu bì của da và những phần liên quan đến da. Vài tuần điều trị là cần thiết cho sự phân phối hoàn toàn thuốc vào trong tế bào và ức chế sự phát triển của nấm. Sự đề kháng hiếm khi xảy ra trong quá trình điều trị. Mặc dù có thể gây quái thai trên chó nhưng griseofulvin không có ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch ở chó.
2. Iodides
Dung dịch chứa 20% sodium iodide (NaI) hoặc 100% potassium iodide (KI) dùng đường uống để điều trị bệnh nhiễm nấm ngoài da, ít độc hơn so với amphotericin B (AMB), dễ dàng tìm thấy tại các phòng mạch để trị phát ban trên da cùng với chứng rụng lông.
3. Amphotericin B và Polyenes khác
AMB là một lypophilic polyene chiết xuất từ Streptomyces nodosus. Do nó kém hấp thu qua niêm mạc tế bào dạ dày hoặc qua da nên AMB phải được tiêm ( thường dùng đường tiêm tĩnh mạch) trong điều trị bệnh nấm toàn thân. Thuốc nước và thuốc dùng tại chỗ được dùng để điều trị bệnh nhiễm trùng niêm mạc hoặc nhiễm trùng ngoài da. Kết quả từ nghiên cứu phòng thí nghiệm chống lại nhiễm trùng nấm chỉ ra khi dùng thuốc cứ 3 ngày
1 lần thì hiệu quả cao so với liều dùng mỗi ngày.
Hầu hết các thuốc được chuyển hóa ngay tại tế bào, một lượng nhỏ sẽ được bài tiết qua nước tiểu. Tiêm tĩnh mạch (IV) chuẩn cần chuẩn bị AMB đông khô kết hợp với deoxycholate muối mật và chất đệm ở trạng thái keo (ADB). Vì nồng độ ở mô não là 6-10 lần cao hơn so với các chế phẩm khác AMB và là yếu tố quyết định quan trọng xác định hiệu quả trong nhiễm trùng ở hệ thần kinh trung ương.
AMB là lựa chọn đầu tiên trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng nấm đối với các loại nấm ăn sâu vào trong cơ thể và có tiến triển nhanh chóng, phổ biến. Sự kháng thuốc rất hiếm khi xảy ra trong quá trình điều trị, nhưng tỷ lệ tái phát có thể xảy ra khi thuốc được ngưng.
Hamycin là một polyene khác nó có hiệu quả chống lại Candida Cryptococcus, Histoplasma, Blastomyces, và các loài Aspergillus. Nó đã được đưa vào đường miệng (PO), tại chỗ, và màng bụng (IP) để điều trị bệnh nấm khác nhau.
4. Flucytosine
Là một pyrimidin fluorinated ban đầu được tổng hợp như một tác nhân chống ung thư. Trái ngược với các nghiên cứu về AMB hiệu quả của FCY được tăng lên khi mức độ liều lượng nhỏ được đưa vào tần số với nồng độ thấp hơn độc tính có thể làm giảm bớt. Tuy nhiên, sự thâm nhập khó tiếp cận với vùng như hệ thần kinh trung ương vì có thể bị tổn thương.
FCY có hiệu quả chống lại Cryptococcus, Candida, và các loại nấm men khác. Sự đề kháng với FCY thường xuyên phát triển trong quá trình điều trị. Vì lý do này, thuốc này luôn được dùng kết hợp với AMB. Phát ban trên da tương tự như gây ra do azoles đã được quan sát trong điều trị trên chó. Ảnh hưởng trên GI và ức chế tủy sơ cấp là những tác dụng phụ quan sát được ở người (xem công thức thuốc trong phần phụ lục).
5. Dẫn xuất của Azole
Các dẫn xuất tổng hợp của nhóm azole ban đầu được dùng để sản xuất Anthelmintics phổ rộng với các hoạt động chống lại một số vi khuẩn gram+ và động vật nguyên sinh. Azoles có mức độ ức chế tổng hợp sterol tương đối thấp trên động vật có vú. Do đó, nó có tác dụng phụ là giảm testosterone, cortisol, androgen, hoặc cholesterol. Ở nồng độ thấp chúng có tác dụng kìm nấm.
Hiệu quả của azoles dường như phụ thuộc vào tổng số lượng thuốc được đưa vào trong 24 giờ chứ không phụ thuộc vào đường uống. Tất cả azoles trải qua chuyển hóa ở gan bởi các enzym cytochrome P450. Nồng độ azole giảm khi dùng thuốc kết hợp. Khi dùng thuốc kết hợp độc tính không mong đợi có thể xảy ra vì azoles trì hoãn sự trao đổi chất.
Nhóm imidazole, thiabendazole ban đầu được công nhận là có hiệu quả trong điều trị các bệnh nấm da trên người. Miconazole, clotrimazole và enilconazole có sẵn trong các loại kem và mỹ phẩm dùng cho da, nó có thể được dùng trong các giải pháp điều trị tại chỗ các bệnh nhiễm trùng do nấm ở da chẳng hạn như Dermatophytosis và candida Imidazoles dùng tại chỗ bao gồm enilconazole hoặc clotrimazole đã được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm trùng mũi và viêm xoang với aspergillosis.
6. Ketoconazole
KTZ ít hoạt động hơn so với miconazole nhưng được hấp thu tốt hơn từ đường ruột làm cho nó thuận lợi trong việc điều trị các nấm toàn thân và nhiễm nấm cadidiasis mãn tính trên niêm mạc. Tác dụng phụ buồn nôn, chán ăn, nôn ở chó có thể được khắc phục bằng cách cho thuốc vào trong bửa ăn và chia nhỏ liều dùng hằng ngày thành 3-4 lần. KTZ đơn trên chó và mèo lại được điều trị hiệu quả với các bệnh đường hô hấp, bệnh phổi do nấm histoplasma, bệnh truyền nhiễm do nấm crytococcus gây tổn thương hệ thần kinh.
7. Itraconazole
Thuộc nhóm azole.
Không xâm nhập được vào thần kinh trung ương, cũng không được loại bỏ trong nước tiểu.
Được dùng đường uống hoặc đường tiêm và được phân bố rộng rãi trong các mô của cơ thể.
Thường được dành cho nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương với Blastomyces, Histoplasma, Coccidioides, và Aspergillus do phổ rộng hơn và tác dụng phụ ít hơn so với thuốc KTZ.
8. Fluconazole
Dùng đường uống, được sử dụng để điều trị nấm toàn thân bao gồm: viêm màng não, blastomycosis và histoplasmosis và để điều trị nhiễm trùng bề mặt bao gồm cả nấm candida và Dermatophytosis (nấm da).
Ưu điểm: hấp thu tốt qua đường uống và có thời gian bán thải tương đối dài.
FCZ đi qua máu não, hàng rào dịch thể tốt hơn so với các dẫn xuất azole cũ.
khuyến cáo lựa chọn sử dụng đầu tiên FCZ sẽ điều trị nhiễm trùng do Candida hoặc Cryptococcus ở thần kinh trung ương.
9. Voriconazole
Là một dẫn xuất tổng hợp của FCZ.
Được cấp phép để điều trị kháng thuốc do nhiễm trùng Candida và Aspergillus ở người.
Có hiệu quả mạnh trong điều trị aspergillosis (nấm phổi) và và candida nấm hầu họng ở động vật thực nghiệm.
Khi sử dụng thuốc này có thể gây độc thần kinh, hay gan.
10. Posaconazole
Một chất tương tự hydroxy hóa của itz.
Sinh khả dụng khi dùng đường uống có phần có giá trị hơn.
Phân bố rộng rãi trong các mô và dịch thể kể cả tế bào phế nang phổi, nhưng không xâm nhập được vào thần kinh trung ương.
Thử nghiệm sơ bộ ở loài gặm nhấm với sự xâm hại của nấm phổi aspergillosis cho thấy PCZ tốt hơn AMB hoặc triazoles khác trong việc giảm gánh nặng về nấm.
11. Terbinafine
Thuốc dùng đường uống có hoạt tính tốt trong phòng thí nghiệm đối với Aspergillus spp, Fusarium spp và nấm sợi khác nhưng hoạt tính biến thiên trong việc chống lại nấm men.
Có hiệu quả cực tốt trong viêc chống lại nấm ngoài da mãn tính ở người, nấm móng tay, sporotrichosis và nhiễm trùng nấm bề mặt.
12. Chất ức chế tổng hợp Chitin và tổng hợp tế bào vách
Thành tế bào nấm bao gồm các polysaccharides chủ yếu là chitin, chitosan , glucan và Mannan.
Các hợp chất mới đang được nghiên cứu như thuốc kháng nấm toàn thân là polyoxins và nikkomycins Lufenuron, urê benzoylphenyl đều là thuốc ức chế tổng hợp chitin trong vách tế bào nấm.
Khi kết hợp với FCZ hoặc itz có thể có hiệu quả tốt hơn.
13. Echinocandins
Aculeacins, echinocandins, và papulacandins là lipopeptides ức chế sự tổng hợp của 1,3- β-glucan , một polysaccharide trong thành tế bào của nhiều loại nấm gây bệnh.
Có hiệu quả chống hệ thống nấm candidiasis và các loại Aspergillus.
14. Caspofungin
Dùng để điều trị sự xâm lấn của nấm candidiasis và aspergillus cho nhiễm trùng niêm mạc.
Thuốc tan trong nước và đường dùng là đường tiêm
Được chứng minh là có hiệu quả hơn AMB trong điều trị nhiễm nấm candidiasis
Một số loại thuốc khác: Các thuốc như: Anidulafungin, Micafungin, Miltefosine đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc chống lại các loại nấm men, nấm ngoài da và một số nấm sợi
15. Liệu pháp kết hợp
Dùng đồng thời hai hay nhiều thuốc kháng nấm được chỉ định trong những trường hợp nhất định.
Kết hợp AMB và FYC có tác dụng hiệp lực trong điều trị nhiễm trùng Cryptococcus.
Trường hợp aspergillosis xâm nhiễm, điều trị kết hợp sử dụng AMB và FYC hoặc AMB và rifampin là hiệu quả hơn cả thuốc dùng một mình và vượt trội so với AMB và ITZ.
16. Sử dụng thuốc kháng nấm trong những trường hợp cụ thể
Vật chủ bị suy giảm miễn dịch:
Thuốc chống nấm kết hợp với interferon – γ hoặc interleukin- 12 có tác dụng hiệp lực trong điều trị nhiễm trùng hệ thống ở thú gặm nhắm (ở phòng thí nghiệm), điều trị chống nấm và miễn dịch cũng đã được kết hợp và có tác dụng hiệu quả.
Trong trường hợp trị liệu bằng kháng chất xơ:
Xơ hóa là một biến chứng của bệnh nhiễm trùng nấm, đặc biệt là trên những mô cơ thể.
Điều trị phối hợp pentoxifylline và itz làm giảm số lượng điều trị cidioidomycosis so với những người chỉ dùng ITZ.
Thuốc Kháng nấm sử dụng trong thai kỳ:
Griseofulvin, FCZ và KTZ đều gây quái thai hoặc gây độc cho phôi ở động vật và nên tránh sử dụng.
KTZ có thể làm thay đổi tính dục.
Iot có thể gây bướu cổ bẩm sinh ở thai nhi, gây sinh non.
AMB và các chế phẩm lipid của nó không gây quái thai và có thể là thuốc được lựa chọn để điều trị nấm hệ thống của động vật mang thai. FCZ là an toàn ở liều lượng thấp trong thai kỳ
Sự đề kháng với thuốc kháng nấm:
Với những người bị suy giảm miễn dịch và trước đó có sử dụng FCZ được ghi nhận rằng có sự gia tăng nhiễm nấm với aspergillus khi dùng AMB điều trị.
Xử lý trước với FCZ đã làm loài Aspergillus đề kháng hiệu quả hơn AMB.
Tổng liều tích lũy của FCZ và sử dụng lịch trình liều liên tục với liều lượng thấp hơn mức cần thiết là những yếu tố có nhiều khả năng góp phần cho sự xuất hiện việc đề kháng nấm.
Điều trị hỗ trợ phẫu thuật:
Phẫu thuật thường cần thiết để loại bỏ những tạp chất từ vết thương nhiễm nấm trong các khu vực này gây khó khăn cho các thuốc kháng nấm xâm nhập.
Nhiễm nấm trong các mạch võng mạc và màng mạch, với tổn thương rỉ dịch phát triển dọc theo các mạch máu sau đó các nhiễm trùng lây lan đến thủy tinh thể, mao mạch của thần kinh trung ương và kết quả là nhiều khả năng chống sự xâm nhập của các loại thuốc kháng nấm.
FCZ có thể cần thiết cho nhiễm trùng nội nhãn.
Thuốc kháng nấm dùng ngoài:
Một số thuốc dùng ngoài da: Axit Undecylenic, Cuprimyxin Dung dịch chlorhexidine (0,5%), Nystatin, Thiabendazole (13%), dầu gội đầu có chứa miconazole chlorhexidin.
Nystatin dùng đường uống (nhưng hấp thu kém) hoặc dùng bôi lên da hoặc niêm mạc để điều trị nhiễm nấm trên bề mặt niêm mạc.
Thiabendazole (13%) đã được sử dụng như một thuốc nhúng ( ba lần một tuần) để điều trị mèo với Dermatophytosis.
Dầu gội đầu có chứa miconazole chlorhexidine và có sẵn cho điều trị tại chỗ nhiễm nấm da. Miconazole thường được sử dụng tại chỗ để điều trị nấm ngoài da đồng thời kết hợp điều trị toàn thân với griseofulvin.