Chó German Shepherd: Nguồn gốc và đặc điểm

Yêu Cún

Sen cấp 5
Bài viết
1,435
Thích
665
Điểm
123
Best Tư vấn
0
Xu
640
Chủ Top
#1
(Deutscher Schäferhund – chó chăn gia súc nước Đức – GSD)

Nguồn gốc : Nước Đức.

Ngày ban hành bản tiêu chuẩn gốc có hiệu lực : 23. 03. 1991.

Công dụng : Sử dụng cho nhiều chức năng, chăn gia súc, canh gác và bảo vệ.

Phân nhóm theo F.C.I. :
Nhóm 1: Chó chăn cừu và gia súc (trừ chó vùng núi và chó chăn gia súc Thụy Sỹ).
Phân nhóm 1: Chó chăn cừu
Dùng làm nghiệp vụ.

Tóm tắt lịch sử : Theo công bố chính thức, Hiệp hội chó GSD của nước Đức (the Association for German Shepherd Dogs – Verein für Deutsche Schäferhunde) có trụ sở tại Augsburg, là một thành viên của Hiệp hội chó giống Đức (German Kennel Club – Verband für das Deutsche Hundewesen e.V., VDH) và là tổ chức khai sinh ra giống chó này. Tổ chức này chịu trách nhiệm thiết lập ra tiêu chuẩn của chó GSD. Bản tiêu chuẩn này được đưa ra trong buổi họp lần đầu của các thành viên hiệp hội tại Frankfurt/Main, vào ngày 20 tháng 9 năm 1899, theo đề nghị của ông A. Meyer và ông Stephanitz. Bản tiêu chuẩn sửa đổi được thực hiện trong cuộc họp hội viên lần thứ 6 vào ngày 28 tháng 7 năm 1901, vào cuộc họp hội viên lần thứ 23 tại Cologne/Rhine vào ngày 17 tháng 9 năm 1909, cuộc họp Ban Điều hành và Ban cố vấn hiệp hội tại Wiesbaden, Đức, vào ngày 5 tháng 9 năm 1930, cuộc họp Ban Điều hành và Ban tiêu chuẩn giống chó vào ngày 25 tháng 03 năm 1961. Bản tiêu chuẩn được sửa đổi và thông qua bởi Hiệp hội chó GSD quốc tế (World Union of German Shepherd Dogs – Weltunion für Deutsche Schäferhunde, WUSV) vào ngày 30 tháng 08 năm 1976 và được rà soát và hiệu chỉnh lại bởi Ban Điều hành và Ban cố vấn hiệp hội vào ngày 23 và 24 tháng 03 năm 1991.



Chó GSD, giống chó được định hướng phát triển ban đầu vào năm 1899 sau sự ra đời của Hiệp hội GSD nước Đức, ban đầu đã được phát triển trên các giống chó chăn gia súc ở miền Trung và miền Nam nước Đức với mục tiêu cuối cùng là tạo ra một giống chó có khả năng thích nghi cao với phần lớn các yêu cầu của công việc. Từ mục đích này, bản tiêu chuẩn giống chó GSD đã được xây dựng, cũng như được nhấn mạnh vào cấu trúc cơ thể, và đặc biệt là về tính tình cũng như những đặc tính ưu việt của giống chó.

Ngoại hình chung : GSD là giống chó có kích thước trung bình, người hơi dài hơn chiều cao, khỏe mạnh, lực lưỡng, có xương gọn gàng và cấu trúc tổng thể vững chắc.

Tính tình : GSD luôn cần phải có bình tĩnh, cân bằng về tính cách với hệ thần kinh mạnh, tự tin, quyết đoán, tuyệt đối tuân thủ (trừ khi bị khiêu khích, chọc tức), tính tình tự nhiên, thoải mái, rất tập trung và dễ huấn luyện. Chúng cũng cần phải có sự dũng cảm, tính chiến đấu cao, độ dẻo dai, bền bỉ và kiên nhẫn để có thể phù hợp với các mục đích làm bạn với người, canh gác, bảo vệ, canh và lùa gia súc hoặc làm chó săn.

Đầu : Đầu có hình nêm và cân xứng với kích thước thân mình (chiều dài đầu khoảng bằng 40% chiều cao tới vai) nhưng không thô hay quá nhọn. Nhìn tổng thể, đầu gọn gàng, sắc cạnh và tương đối rộng trong khoảng giữa hai tai. Trán nhìn từ phía trước và phía bên chỉ hơi tròn và hoàn toàn không có hoặc chỉ có một đường chẻ giữa trán rất nhẹ.



Tỷ lệ của khu vực sọ và mặt là 50:50. Độ rộng của vùng sọ xấp xỉ với chiều dài. Nhìn từ phía trước, sọ thon đều từ tai tới sống mũi và hơi vát vào vùng trán có hình nơm và xiên đều xuống điểm tiếp giáp giữa trán và gốc mũi, không tạo ra nếp gãy ở đây. Hàm trên và hàm dưới phát triển rất khỏe. Sống mũi thằng, bất cứ vệt lồi lõm hoặc cong đều không được ưa chuộng. Môi dày, khép chặt và có màu tối.
Mũi : Bắt buộc phải có màu đen.
Răng : Răng phải to khỏe, phát triển đầy đủ ( 42 chiếc răng theo đúng công thức của hàm răng chó).

GSD có miếng cắn hình cắt kéo, cụ thể: hai răng nanh cắt chéo sát nhau như lưỡi kéo cắt, răng nanh hàm trên chồng lên răng nanh hàm dưới. Răng song song (cắn thẳng), vẩu răng trên hay trễ răng dưới cũng như có khoảng cách quá rộng giữa các răng đều bị coi là lỗi. Các răng nanh sắp thẳng nhau cũng bị coi là lỗi tương đương, xương hàm phải rất phát triển và các răng gắn vào xương hàm theo một hình hơi cong.
Mắt : Mắt có kích thước trung bình, hình quả hạnh, nằm hơi xiên và không lồi. Mắt có màu càng tối càng được ưa chuộng. Mắt màu sáng không được ưa chuộng do nó ảnh hưởng tới vẻ biểu cảm của con chó.
Tai : GSD có tai dựng đứng, có kích thước trung bình và hướng về phía trước, tai dựng theo hai đường song song (không hướng sát vào trong). Hai tai vuốt thon lại tại một điểm và phần daí tai (ở phía ngoài gốc tai) mở rộng, hướng về phía trước. Tai gập nửa chừng hoặc cụp là lỗi. Khi chó chuyển động hoặc đang thực hiện các hành động khác, tai nằm thấp xuống không bị coi là lỗi.

Cổ : Cổ cần phải khỏe, rất chắc chắn và không có diềm cổ. Cổ tạo thành với thân mình (theo hướng nằm ngang) một góc khoảng 45°.



Thân mình : Đường lưng chạy liền mạch và không có bất cứ điểm gấp gãy nào lộ ra, tính bắt đầu từ gốc cổ, qua vùng vai nổi rõ tới phần sống lưng hơi dốc xuống so với đường nằm ngang và hơi dốc xuống ở phần khấu đuôi. Lưng chắc khỏe và mạnh mẽ. Hông rộng, rất phát triển và mạnh mẽ. Vùng khấu đuôi cần dài, hơi xiên xuống (khoảng 23° so với chiều ngang) và không có một điểm gấp gãy nào với đường lưng rồi kéo liền xuống đuôi.

Ngực : Ngực rộng vừa phải, lồng ngực rất phát triển và càng dài càng tốt. Độ sâu ngực khoảng 45 tới 48% chiều cao tới vai. Lồng ngực có xương sường cong vừa phải. Lồng ngực hình thùng rượu hay quá phẳng đều bị coi là lỗi.

Đuôi : Đuôi ngắn nhất cũng phải chạm tới khủy chân sau và không dài quá nửa cổ chân sau. Đuôi có lông dài hơn ở phần chóp đuôi và hơi cong nhẹ lên một chút. Khi chó phấn khích hoặc đang vận động, đuôi dựng và nâng cao lên nhưng không quá chiều ngang thân mình. Các phẫu thuật để sửa đuôi bị cấm.


Tứ chi

Chân trước : Nhìn từ phía bên, chân trước thẳng. Nếu nhìn từ phía trước, chân tuyệt đối song song với nhau. Xương bả vai và xương đòn dài tương đương nhau, rất mạnh mẽ và sát chặt với thân mình. Góc giữa xương bả vai và xương đòn lý tưởng nhất đạt 90°, nhưng thường đạt tới 110°.
Khủy chân trước không được chĩa vào trong cũng như ra ngoài, kể cả khi nghỉ ngơi lẫn khi chuyển động. Nhìn từ mọi phía, hai cẳng chân trước thẳng và song song với nhau một cách tuyệt đối, xương chân khô và chắc, mạnh mẽ. Cổ chân có chiều dài bằng khoảng 1/3 của cẳng chân và tạo thành với cẳng chân một góc từ 20° tới 22°. Cổ chân quá yếu (góc lớn hơn 22°) hoặc cổ chân dốc đứng (góc nhỏ hơn 20°) có ảnh hưởng tới khả năng làm việc của con chó, đặc biệt là sức bền của chúng.
Bàn chân trước : Tròn, các ngón chân khít chặt và cong. Đệm chân cứng nhưng không khô giòn, có màu tối. Móng chân to khỏe và có màu tối.

Chân sau : Chân sau nằm ở vị trí hơi choãi ra phía sau. Nhìn từ phía sau, hai chân song song. Xương đùi trên và xương cẳng chân dưới dài tương đương nhau và tạo thành một góc khoảng 120°. Đùi lực lưỡng, khỏe mạnh. Khớp cổ chân chắc chắn, mạnh mẽ. Cổ chân nằm thẳng vuông góc ngay dưới khớp cổ chân.
Bàn chân sau : Bàn chân chắc khỏe, ngón chân khít, hơi cong. Đệm chân cứng và có màu tối. Móng chân khỏe, cong và cũng có màu tối.



Chuyển động : GSD là một giống chó chạy nước kiệu. Chiều dài và các góc gập của tứ chi cần phải phối hợp nhịp nhàng với nhau và không tạo ra những dấu hiệu mất nhịp nhàng của đường sống lưng. Chân sau cần tạo ra sức đẩy với thân mình, trong khi chân trước cần phải có độ mở để đạt được bước chạy tương xứng. Bất cứ xu hướng gấp khúc quá lớn ở xương chân sau đều làm giảm sự chắc chắn và sức chịu đụng, tương ứng là làm giảm khả năng làm việc của con chó. Tỷ lệ thân mình và các góc gập của tứ chi đúng sẽ tạo ra cho con chó những bước chạy nhẹ nhàng và nhịp nhàng trên mặt sân, bước chạy vươn xa, tạo ra một ấn tượng về hướng đẩy không cần cố gắng về phía trước. Đầu hướng về phía trước và đuôi hơi nâng cao trong mọi tư thế, bước chạy nước kiệu không cần cố gắng cho thấy một đường cong uyển chuyển và không bị ngắt quãng của đường sống lưng, từ đầu chóp tai, qua cổ tới tận chóp đuôi.

Da : Lớp da vừa vặn và không có các lớp nhăn, gấp khúc.

Lông

Chất lông: Lông của GSD là loại lông hai lớp (Stockhaar) với lớp lông ngoài và lông trong. Lớp lông ngoài rất rậm, càng rậm càng được đánh giá cao. Lông ở lớp ngoài thẳng, thô ráp và nằm sát với thân mình. Ở đầu, phía trong tai, phía trước chân và bàn chân, ngón chân, lông ngắn hơn. Lông trên cổ dài hơn và rậm hơn các vùng khác. Ở phía sau chân, lông dài hơn trên ống chân, kéo dài đến cổ chân và khớp nối chân sau, tạo thành một kiểu “mặc quần dài” ở phía sau đùi..

Màu sắc : Màu đen với các sắc nâu đỏ, nâu sẫm, vàng tới các mảng màu xám nhạt. Đen tuyền hoặc xám tuyền một màu. Màu xám với các vết màu tối hơn, các mảng màu đen. Mặt chó màu đen kiểu như đeo mặt nạ. Những con chó có đốm trắng nhỏ ở ngực và trong ức cũng được chấp nhận nhưng không được ưa chuộng. Mũi chó luôn phải có màu đen đối với tất cả các màu lông. Chó không có mặt đen, mắt có màu nhạt, cũng như những vệt màu trắng ở ngực và trong ức, móng chân có màu xám nhạt, chóp đuôi màu vàng đỏ được xem là bị thiếu sắc tố. Lớp lông lót ở dưới có màu xám nhạt. Màu trắng không được chấp nhận.



Kích thước và trọng lượng :
Chó đực : Chiều cao tới vai: 60 tới 65 cm.
Cân nặng : 30 tới 40 kg.
Chó cái: Chiều cao tới vai: 55 tới 60 cm.
Cân nặng: 22 tới 32 kg.
Người dài hơn chiều cao tới vai khoảng từ 10 đến 17 %.


Lỗi: Bất cứ các điểm khác biệt so với những đặc điểm nên trên đều được coi là lỗi và mức độ nặng nhẹ được đánh giá theo từng lỗi của các bộ phận và mức độ ảnh hưởng của lỗi đó đến tổng thể con chó.
Các lỗi nặng :
-Tất cả các khác biệt so với các đặc điểm mô tả ở trên và có ảnh hưởng đến khả năng làm việc của con chó.
-Lỗi về tai: Phần bên tai nằm quá thấp, tai vót quá nhọn, tai quá ngắn, nhỏ. Tai không cứng.
-Có nhiều lỗi về thiếu sắc tố
-Có nhiều lỗi về thiếu sự mạnh mẽ, chắc chắn.
-Lỗi về răng : Tất cả các khác biệt của miếng cắn so với miếng cắn hình cắt kéo, các răng không nằm đúng vị trí nhưng không thuộc các lỗi bị loại bỏ được liệt kê ở dưới.

Các lỗi bị loại bỏ :
-Hung dữ hoặc quá nhút nhát
-Thần kinh yếu hoặc hoảng sợ, hay cắn bậy.
-Chó có dáng tai và dáng đuôi không đúng
-Chó có các dị tật cơ thể
-Chó thiếu các răng sau:
+ thiếu răng tiền hàm số 3 và 1 răng khác, hoặc
+ 1 răng nanh, hoặc
+ 1 răng tiền hàm số 4, hoặc
+ 1 răng hàm số 1 hoặc 2, hoặc
-Chó có các lỗi về hàm, chó bị vẩu nhiều hơn 2mm, chó bị trễ hàm dưới, 12 răng cửa tạo thành vết cắn hình càng cua cặp.
-Chó quá khổ hoặc dưới khổ quy định nhiều hơn 1 cm.
-Chó bị bạch tạng
-Chó có lông trắng (dù vẫn có mắt tối và móng chân đen)
-Lớp lông ngoài dài (dài, mềm, các lớp lông ngoài và lông lót không phẳng, có lông dài ở tai và chân, chân có lông dài như mặc quần, đuôi xù, lông đuôi ở mặt dưới dài như lông chim).
-Lông dài (dài, mềm và không có lớp lông lót, lông gần như chia làm đôi ở giữa sống lưng, lông dài ở tai, chân và đuôi).

Các con chó có dấu hiệu không bình thường về thể chất và tinh thần đều bị loại.

N.B. : Chó đực ở tư thế bình thường phải có hai tinh hoàn lộ rõ trong bìu.
 

7 thông tin bất ngờ về loài mèo lạ Ragdolls
  • 5,774
  • 0
Ragdolls là tên một giống mèo với đôi mắt màu xanh dương tuyệt đẹp và bộ bông hai màu tương phản đặc trưng và được mô tả bằng 3 từ: to, đẹp và thân thiện. Với bộ lông mềm mại và hơi dài tương tự như mèo Ba Tư hoặc Angora, cơ thể khá lớn và tính...
Diễn đàn Thú cưng | Phụ kiện Thú cưng | Mua bán thú cưng
DMCA.com Protection Status
Top Dưới